Bia có mặt trên thị trường vì… nước bị ô nhiễm
Vào thế kỷ 8, sự sản xuất cực thịnh của Đạo thiên chúa đã làm cho phổ quát tu viện được xây đắp lên, tất cả trong số đó trở thành cơ sở đóng chai bia và rượu.
Cũng trong giai đoạn này, thay đổi quan trọng trong thứ tự làm cho bia được người Tây Âu phát hành, cụ thể là việc dùng hoa bia (tên kỹ thuật là Humulus Lupulus) để bảo quản, khiến cân bằng vị ngọt của malt và phát triển hương vị đặc trưng cho bia. Đến thế kỷ 12 và 13, đóng chai bia biến thành hoạt động thương nghiệp. Lúc trước, tu viện là nơi độc nhất bia được đóng chai để sử dụng và sắm sửa với mức tiêu thụ bia lên tới 5l/ngày/người. Yếu tố này là do một số duyên do như nguồn nước quá trình đó rất ô nhiễm làm cho các tu sĩ lựa chọn uống bia thay vì nước, hay cách thức ăn ít ỏi của các tu sĩ làm cho họ chọn lựa uống bia để cung cấp cho thân thể thêm chất dinh dưỡng.
Dường như đó, bia thời đó còn thường được dùng cho các lễ nghi tôn giáo, trong các cuộc hội họp xã hội và dùng khiến cho thuốc kháng sinh chữa bệnh. Kể từ thế kỷ 14, các tu viện dần mất đi vị thế trọng tâm trong lĩnh vực bia, thay tham gia đó các cơ sở sắm sửa bia tăng lên cả về số lượng và phân khúc. Vấn đề này là do khi cuộc Cách mệnh Cải Cách thức diễn ra tại Châu Âu tham gia thế kỷ 16, phổ quát tu viện Công giáo bị đóng cửa và cùng với đó hoạt động chế biến bia tại tu viện cũng dừng lại, thay tham gia đó là các hạ tầng bia cá nhân.
Sự chuyển đổi của hoạt động sản xuất bia từ tu viện sang cơ sở vật chất kinh doanh tư nhân đã phát triển vững mạnh cho lĩnh vực. Vài chuyên gia cho rằng giai đoạn trong khoảng giữa những năm 1450 đến đầu thế kỷ 17 là công đoạn tiến thưởng của lĩnh vực bia trái đất. Sự phát hành này có được là nhờ hương vị và chất lượng bia được cải thiện và nâng cao nhờ sự phát sinh ra hoa bia, dây chuyền chế biến hiệu quả hơn và các kênh phân chia phát hành. Đồng thời sự khó khăn giữa các hạ tầng tư nhân theo cơ chế hoạt động mua bán cũng là động lực làm cho ngành bia phát triển.
Hầu hết yếu tố ảnh hưởng đến cả cung và cầu đóng góp cho sự phát hành của ngành bia quá trình này. Vào công đoạn đầu Trung Đại, nhiều người chỉ uống bia tham gia các dịp lễ tết vì khi đó họ được uống không tính tiền. Doanh thu của mỗi người quá thấp để có thể khiến cho cầu bia cao. Cầu bia chỉ tăng vào cuối thế kỷ 14 và thế kỷ 15, sau đại dịch Cái chết Đen (The Black Death), khiến cho dân số Châu Âu sụt giảm. Thu nhập tăng cao vào thế kỷ 15 làm cho cầu bia cũng tăng theo.
Bên cạnh đó, sau đại dịch Cái chết Đen, các thị trấn vốn có được mở rộng và các thành phố mới được tạo nên đã đem lại thời cơ phát hành cho ngành bia. Cầu bia cũng tăng lên khi người dân uống bia thay vì nước do nhận thức được nguồn nước thời đó bị ô nhiễm trầm trọng. Thành ra, ngày càng có phổ thông người chọn bia, thứ hàng điểm tâm được làm trong khoảng nước đun sôi, thay vì nước tầm thường. Một nguyên nhân khác làm cho cầu bia tăng thời đó là số lượng ngày một đa dạng của các lái buôn vận động giữa các đô thị và các khu vực bán buôn.
Những cuộc thám hiểm tậu vùng đất mới
Cũng trong giai đoạn này, các quy định, điều lệ khởi đầu được đặt ra trong lĩnh vực bia: phổ biến qui định về thuế được áp đặt lên các cơ sở đóng chai bia, trong đó chỉ rõ cách thức, quy trình đóng hộp bia cũng như các loại nguyên liệu chuẩn y dùng trong chế biến bia… Yếu tố luật nổi tiếng nhất về bia được đề ra vào năm 1487 tại Đức có tên "Reinheitsgebot" (Luật Tinh khiết) có hiệu lực cho đến tận cách đây 20 năm, trong đó pháp luật rõ bia chỉ được chế biến trong khoảng lúa mạch, hoa bia và nước sạch sẽ.
Trong thời kỳ Đầu Cận kim, bia được mang ra địa phận ngoài bờ cõi Châu Âu khi những nhà thám hiểm mở đầu có những chuyến đi tìm kiếm vùng đất mới và cùng lúc, công thức khiến cho bia cũng được người Châu Âu truyền lại cho người dân trên những vùng đất họ đi qua. Nhờ đó, ngành bia có cơ hội lan rộng ra thế giới. Việc toàn cầu hóa một mặt giúp các cơ sở vật chất bia mở mang được thị trường tiêu thụ, mặt khác lại khiến cho bia châu Âu phải cạnh tranh với các giải khát khác đến từ các lãnh thổ mới như trà, nước dừa và café...
Cạnh tranh không chỉ tới trong khoảng nước ngoài mà còn hiện hữu trong chính thị trường trong nước, nhờ hệ thống giao thông vận chuyển sản xuất, item rượu có thể tiếp xúc được với đa dạng đối tượng đối tượng mua hàng hơn và từ đó tạo sức ép khó khăn lên bia.
Sang đển thế kỷ 18 và 19 là quá trình có phần lớn phát kiến kỹ thuật đóng góp vào trật tự đóng chai bia. Cụ thể: Các nắm bắt biết mới về men bia giúp chế biến được thêm rộng rãi loại bia mới và giữ vững tốt hơn thứ tự ủ bia.
Một trong những cải tiến nổi trội nhất trong giai đoạn này là quy trình ủ bia mang thai tên "lagering". Trước khi cách thức ủ bia này được nhận thấy, nấm men thường được rải lên trên bề mặt của bia, trật tự này được gọi là "lên men từ phía trên" (top-fermented). Ngược lại, để chế biến được bia lager, quy trình "lên men từ đáy" (bottem-fermentation) – men bia chìm xuống đáy hậu sự ủ bia, được sử dụng. Bia lager trong và có màu sáng hơn các loại bia khác.
Loại bia này có mặt trên thị trường và chiếm được sự ủng hộ tích cực của người mua. Trong giai đoạn những năm 1880, ngành bia thế giới diễn ra sự chuyển đổi trong xu hướng tiêu thụ trong khoảng bia lên men trong khoảng trên sang bia lên men trong khoảng đáy (lager). Với sự nhận thấy thứ tự lên men trong khoảng đáy này, ngành nghề bia Châu Âu chính thức bước tham gia thời kỳ công nghệ hóa.
Trong khi đó, những cải tiến liên quan đến máy hơi nước cho phép dùng các loại máy móc chạy bằng hơi nước phức tạp hơn trong thời kỳ ủ bia, đồng thời giảm chi tiêu vận tải và bảo quản. Nhờ đó, hoạt động xuất khẩu bia ra khỏi Châu Âu, Mỹ, Canada, và Úc trở thành dễ dàng hơn và với chi tiêu thấp hơn.
Sự thành lập của tủ lạnh cho phép các nhà máy đóng chai bia lager, loại bia cần làm lạnh, trong cả năm thay vì chỉ sản xuất được trong mùa đông. Tóm lại, nhờ sự văn minh trong công nghệ, các nhà máy bia kiểm soát được môi trường ủ bia tốt hơn. Hơn thế nữa, những cải tiến này còn hiện ra song song với những phát hiện mới về nấm men bia, nhờ đó, các công ty bia chế biến được nhiều loại bia với chất lượng tốt loanh quanh năm và chi tiêu thấp hơn trước phần nhiều.
Những phát kiến tạo ra bình thủy tinh và lon kim khí đựng bia giúp việc tải và bảo quản bia tốt hơn sau khi đóng chai.
Thế kỷ 19 tới 20 lại là giai đoạn của cả phát triển và suy giảm, phù hợp nhất và toàn cầu hóa. Vào thế kỷ 19: Ngành bia lớn mạnh khỏe khoắn đặc biệt là tham gia những năm cuối thế kỷ 19 cho đến khi Chiến tranh quả đât I nổ ra. Đến đầu thế kỷ 20, chế biến bia giảm mạnh trong công đoạn 1915-1950, do phổ thông cơ sở đóng chai bị đóng cửa, nguyên liệu khan hiếm và dành đầu tiên cho các cấp đóng chai dịch vụ chiến tranh.
Ngoài ra đó, trên trái đất còn có một số sự kiện khác như cuộc đại khủng hoảng (1930-1940) – công đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu cũng là một trong những khởi thủy khiến cho cầu bia giảm mạnh. Hay sự kiện Cơn Bão Đen diễn ra vào những năm 1930 tại Mỹ và Canada với hiện tượng bão, lốc và hạn hán liên hồi gây ra phổ biến thiệt hại nguy hiểm cho hệ sinh thái và nông nghiệp trong khu vực, làm cho lượng cầu lương thực giảm và giá ngũ cốc tăng cũng góp phần làm cho giảm sản lượng bia trong những năm 1930.
Sau Chiến tranh Thế giới II, ngành nghề bia phát triển mạnh mẽ quay về trong thời kỳ 1950-1980 tại Châu Âu và Mỹ. Vấn đề này là do kĩ nghệ phát triển và doanh thu tăng làm cho cầu bia nhờ đó cũng tăng theo.
Theo Nhịp Sống Kinh Tế/FPTS
Tham khảo thêm: An toàn thực phẩm mùa tết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét