Thứ Năm, 21 tháng 12, 2017

WHO xếp đồ uống rất hot tham gia nhóm có thể gây ung thư: Người Việt cần để ý 1 loại đồ uống

Trà là một trong những hàng điểm tâm cổ đại và tầm thường ở vn và phổ quát nước trên quả đât như Nhật, TQuốc, Anh, Mỹ… Trà được khiến từ lá của cây Camellia sinensis. Một thời điểm ngắn sau khi thu hoạch, lá trà bắt đầu héo và bị ôxy hóa. Trong suốt quá trình oxy hóa , các chất hóa học trong lá bị phá đổ vỡ bởi các enzym, lá trở thành sẫm màu và có mùi thơm.

Quá trình oxy hóa này có thể được ngăn chặn bằng bí quyết nung hot nhằm làm cho bất hoạt các enzym.

Trà có gây ung thư không?

Trà gồm các polyphenol, các alkaloid (cafein, theophyllin và theobromine), các acid amin, carbohydrate, protein, chất diệp lục, các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (chất hóa học tiện lợi chia thành hơi và tạo mùi cho trà), florua, nhôm, khoáng chất, và nhân tố khác (3).

Các polyphenol, hàng ngũ lớn các chất hóa học thực từ vật bao gồm các catechin (4), có ích cho sức khỏe.

Các catechin hoạt động và phong phú nhất trong trà xanh là epigallocatechin-3-gallate (EGCG).

Các polyphenol trong trà xanh chứa phổ thông EGCG, EGC, ECG và EC-, theaflavins và thearubigins trong trà đen có hoạt tính chống oxy hóa (5), đặc biệt là EGCG và ECG, có tài năng thu gom các gốc tự do và kiểm soát an ninh tế bào khỏi sự phá hủy DNA do các gốc oxy bức xúc (ROS) gây ra (5).

Polyphenol trong trà cũng có chức năng ức chế nhạo sự tăng sinh tế bào ung thư và kích hoạt công đoạn chết tự nhiên của tế bào (apotosis) trong tìm hiểu ở phòng thí điểm và trên động vật (1, 6).

Ảnh minh họa

Trong các phân tích ở phòng thử nghiệm và trên động vật khác, catechin trong trà đã được chứng minh tài năng ức nhạo báng sự hình thành mạch và xâm lấn của các tế bào ung thư (7).

Dường như, chất polyphenol trong trà có thể bảo kê chống cự những tác lại gây ra bởi bức xạ tia cực tím (UV) (6, 8), cùng lúc còn có tài năng nhân tố chỉnh tính năng của hệ thống miễn nhiễm (9).

Hơn nữa, trà xanh còn có thể kích hoạt các enzym giải độc, chẳng hạn như Glutathione S-transferase và Quinone reductase, có thể kháng cự sự phát hành của khối u (9).

Mặc dù hầu hết các ảnh hưởng có lợi của trà được cho là do hoạt tính chống oxy hóa mạnh mẽ của polyphenol trong trà, dĩ nhiên, cơ chế đúng đắn giúp ngăn phòng ngừa bệnh ung thư của trà vẫn chưa được đưa ra (6).

Liên quan tới trà xanh, chúng ta có thể nhìn tham gia nhì phân tích. Trong một nghiên cứu ở phụ nữ Nhật Bạn dạng đã được chẩn đoán bận rộn bệnh ung thư vú ở quá trình đầu (không di căn), những người tiêu thụ ít ra ba tách trà xanh mỗi ngày, có kĩ năng tái phát ít hơn 57% so với những thiếu phụ uống một tách hoặc ít hơn mỗi ngày (10).

Một nghiên cứu khác cũng tại Nhật cho thấy những người nam nhi bị ung thư tuyến tiền liệt uống hơn năm cốc trà mỗi ngày sẽ giảm 50% nguy cơ tiến triển ung thư. (11)

Mách nước bạn cách uống trà đúng cách thức

Trà được FDA Hoa Kỳ thừa nhận là an toàn. Nghiên cứu bình an được lưu ý dựa trên tài năng tiêu thụ lên tới 1200 mg EGCG khi bổ sung ở người lớn mạnh bạo trong khoảng thời điểm từ 1 đến 4 tuần (12, 13).

Các tính năng phụ được công bố trong các nghiên cứu này bao gồm thừa khí trong ruột, bi ai nôn, ợ nóng, đau dạ dày, đau bụng, chóng mặt, nhức đầu, đau cơ (12, 13).

Trong một tìm hiểu ở Nhật Bản, trẻ thơ trong khoảng 6 tới 16 tuổi uống nước thức uống trà xanh có chứa 576 mg catechin (nhóm thực nghiệm) hoặc 75 mg catechin (hàng ngũ chứng) trong 24 tuần không có công dụng phụ (16). Chưa có tìm hiểu cho thấy hàm lượng catechin cao hơn có bình an đối với trẻ thơ hay không.

Như những giải khát chứa caffeine khác chẳng hạn như cà phê và cola, caffeine chứa trong phổ biến sản phẩm chè có thể gây ra công dụng phụ, bao gồm nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, mất ngủ, hồi hộp, run sợ, run, nhức đầu, đau bụng, bi hùng nôn, nôn mửa, tiêu chảy , và lợi tiểu (15).

Đương nhiên, có rất ít chứng cứ về những tác hại ảnh hưởng tới sức khỏe của người lớn khi tiêu thụ một lượng vừa phải caffeine (khoảng 300 mg tới 400 mg mỗi ngày).

Không có phổ biến tìm hiểu đề cập tới ảnh hưởng của caffein trên trẻ em (15). Tóm lại, liều lượng cafein ít hơn 3 mg/kg trọng lượng cơ thể không dẫn tới tính năng phụ ở trẻ em (15). Liều cao hơn có thể dẫn đến một số ảnh hưởng hành vi, chả hạn như gia tăng bít tất tay hoặc sợ hãi và rối loàn giấc ngủ (16).

Ảnh minh họa

Trà đen và trà xanh có thể ức nhạo báng hoạt tính sinh học của sắt trong thưởng thức (4). Ảnh hưởng này có thể tác động cần thiết tới những người bị thiếu máu thiếu sắt (4).

Các tác giả của 35 nghiên cứu về tác động của việc uống trà đen đối với trạng thái thiếu sắt ở Anh kết luận rằng, mặc dầu uống trà hạn nhạo báng sự hấp thu sắt trong thưởng thức nhưng không có đủ chứng cứ để kết luận rằng có tác động tới hemoglobin và nồng độ ferritin trong máu ở người lớn (17).

Sự tương tác giữa trà và sắt có thể được giảm nhẹ bằng phương pháp tiêu thụ thực phẩm tăng mạnh thu nạp sắt trong cùng một bữa ăn, chẳng hạn như những loại có chứa vitamin C (chanh), và các loại thực phẩm có chứa phổ thông sắt (giết đỏ) (4).

Uống đồ uống rất nóng có thể gây ung thư?

Hình như việc dùng các trái cây có chứa các chất bổ ích cho sức khỏe hằng ngày thì việc sử dụng như thế nào cũng rất cần thiết. Công ty Nghiên cứu Toàn cầu về Ung thư (IARC) thuộc Doanh nghiệp Y tế Trái đất (WHO) đã phân loại uống đồ uống rất nóng vào nhóm có thể gây ung thư cho loài người (Hàng ngũ 2A).

Đồ uống rất nóng là đồ uống hot hơn 65°C (149 độ Fahrenheit).

Tại Mỹ, cà phê, trà, sô cô la nóng, và các đồ uống nóng dị kì được uống ở nhiệt độ thấp hơn 65°C (18).

Nhân tố này được đưa ra dựa trên chứng cớ hạn dè bỉu trong khoảng các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy có sự can hệ giữa bệnh ung thư thực quản và uống đồ uống rất nóng.

Các phân tích ở những nơi như TQuốc, Cộng hòa Hồi giáo Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, và Nam Mỹ, mate và trà được uống theo kiểu truyền thống ở nhiệt độ rất hot (khoảng 70°C), cho thấy nguy cơ ung thư thực quản tăng cao tỉ lệ thuận với nhiệt độ của bánh kẹo khi uống (18)

Trong các thí nghiệm can hệ tới động vật, cũng có chứng cớ hạn chế cho thấy kĩ năng gây ung thư của nước rất nóng.

Ung thư thực quản là ung thư tầm thường thứ 8 trên toàn quả đât và là một trong những nguyên do chính gây tử trận với khoảng 400 000 trường hợp tử trận được ghi kiếm được trong năm 2012 (5% của hầu hết các trường phù hợp tử trận do ung thư).

Tuy nhiên, tỷ lệ các trường phù hợp mắc bệnh ung thư thực quản mà có can hệ đến việc uống quà bánh nóng thì không được nhân thức đến (18).

BS Lê Hồng Ngọc Phượng

Ruy Băng Tím là tổ chức phi lợi nhuận về phòng chống ung thư tại Việt Nam, được xây cất tham gia ngày 12/12/2015 với sự nhập cuộc của các bác sĩ ung bướu, các nhà công nghệ nghiên cứu về ung thư trong và ngoài nước.

Ruy Băng Tím mong muốn xây đắp một website khoa học đáng tin cẩn, chuyên cung cấp tin tức chính xác, hoàn toản về ung thư. Các bài viết đều được các tác giả tra cứu kỹ càng trước khi viết, có dẫn nguồn toàn diện để người đọc có thể đọc thêm. Website: ruybangtim.com

Cố vấn kỹ thuật: TS. Nguyễn Hồng Vũ

*Theo Tea and Cancer Prevention

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Seeram NP, Henning SM, Niu Y, et al. Catechin and caffeine content of green tea dietary supplements and correlation with antioxidant capacity. Journal of Agricultural and Food Chemistry 2006; 54(5):1599–1603.

2. Mukhtar H, Ahmad N. Tea polyphenols: Prevention of cancer and optimizing health. American Journal of Clinical Nutrition 2000; 71(6 Suppl):1698S–1702S.

3. Cabrera C, Giménez R, López MC. Determination of tea components with antioxidant activity. Journal of Agricultural and Food Chemistry 2003; 51(15):4427–4435.

4. Cabrera C, Artacho R, Giménez R. Beneficial effects of green tea―a review. Journal of the American College of Nutrition 2006; 25(2):79–99.

5. Henning SM, Niu Y, Lee NH, et al. Bioavailability and antioxidant activity of tea flavanols after consumption of green tea, black tea, or a green tea extract supplement. American Journal of Clinical Nutrition 2004; 80(6):1558–1564.

6. Henning SM, Niu Y, Lee NH, et al. Bioavailability and antioxidant activity of tea flavanols after consumption of green tea, black tea, or a green tea extract supplement. American Journal of Clinical Nutrition 2004; 80(6):1558–1564.

7. Zaveri NT. Green tea and its polyphenolic catechins: Medicinal uses in cancer and noncancer applications. Life Sciences 2006; 78(18):2073–2080.

8. Elmets CA, Singh D, Tubesing K, et al. Cutaneous photoprotection from ultraviolet injury by green tea polyphenols. Journal of the American Academy of Dermatology 2001; 44(3):425–432.

9. Steele VE, Kelloff GJ, Balentine D, et al. Comparative chemopreventive mechanisms of green tea, black tea and selected polyphenol extracts measured by in vitro bioassays.Carcinogenesis 2000; 21(1):63–67.

10. Inoue M, Tajima K, Mizutani M, et al. Regular consumption of green tea and the risk of breast cancer recurrence: follow-up study from the Hospital-based Epidemiologic Research Program at Aichi Cancer Center (HERPACC), Japan. Cancer Letters 2001;167(2):175-82.

11. Kurahashi N, Sasazuki S, Iwasaki M, Inoue M, Shoichiro Tsugane for the JSG. Green Tea Consumption and Prostate Cancer Risk in Japanese Men: A Prospective Study. Am J Epidemiol 2007;167(1):71-7.

12. Chow HH, Hakim IA, Vining DR, et al. Effects of dosing condition on the oral bioavailability of green tea catechins after single-dose administration of polyphenon E in healthy individuals. Clinical Cancer Research 2005; 11(12):4627–4633.

13. Chow HS, Cai Y, Hakim IA, et al. Pharmacokinetics and safety of green tea polyphenols after multiple-dose administration of epigallocatechin gallate and polyphenon E in healthy individuals. Clinical Cancer Research 2003; 9(9):3312–3319.

14. Matsuyama T, Tanaka Y, Kamimaki I, Nagao T, Tokimitsu I. Catechin safely improved higher levels of fatness, blood pressure, and cholesterol in children. Obesity 2008; 16(6):1338–1348.

15. Higdon JV, Frei B. Coffee and health: A review of recent human research. Critical Reviews in Food Science and Nutrition 2006; 46(2):101–123.

16. Nawrot P, Jordan S, Eastwood J, et al. Effects of caffeine on human health. Food Additives and Contaminants 2003; 20(1):1–30.

17. Nelson M, Poulter J. Impact of tea drinking on iron status in the UK: A review. Journal of Human Nutrition and Dietetics 2004; 17(1):43–54.

18. IARC Monographs evaluate drinking coffee, mate and very hot beverages (WHO).

Theo BS Lê Ngọc Hồng Phượng

Trí Thức Trẻ


Đọc thêm: An toàn thực phẩm mùa lễ tết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét